Nhận định Gia_Long

Quá trình Nguyễn Ánh - Gia Long xây dựng cơ nghiệp nhà Nguyễn và cai trị một nước Việt Nam sau nhiều thế kỷ chia cắt và nội chiến, cũng như các di sản và hệ quả ông để lại trong dòng lịch sử Việt Nam là chủ đề của rất nhiều sách, báo, cũng như các công trình nghiên cứu khác nhau. Sau đây là một số lời nhận xét của các sử gia và nhà nghiên cứu về ông:

Nhận định chung

Nguyễn Ánh đã trải qua những nguy hiểm tày núi, cái chết cận kề, thế rồi ông vẫn thoát. Cái may mắn có được của ông là cái rất hiếm hoi mà người đời khó bắt gặp... Những truyền thuyết dân gian như Nguyễn Ánh có trời giúp, nổi phong ba ngăn chặn Tây Sơn; hay rắn thần xuất hiện đưa ông đến nơi an toàn trong lúc lâm nguy trên đảo Thổ Châu... được lưu truyền tận về sau cũng xuất phát từ những sự thật kỳ diệu đến mức khó tin này... Nguyễn Huệ đã ra đi đột ngột và lịch sử bước sang một giai đoạn mới, đó là Nguyễn Ánh quyết định vai trò trên sân khấu lịch sử... Nguyễn Huệ trồng cây. Gia Long hái quả... Từ cái chết của Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh là kẻ thù biết chiếm đoạt toàn bộ thành quả do Nguyễn Huệ làm nên và biết đưa nó đến đích, mặc dù chỉ là giải quyết những bước cuối cùng - thống nhất sơn hà. Tuy vậy đó cũng là một công lao của Nguyễn Ánh mà lịch sử không thể phủ nhận. Đáng tiếc, sau khi nắm toàn bộ quyền binh trong tay, ông lại thực hiện những cuộc báo thù man rợ, ít có trong lịch sử đối với một Hoàng đế; lo thu vén quyền binh và bổng lộc cho cá nhân và dòng tộc. Ông không biết phát huy những quy luật phát triển mới của thời đại, lại đưa đất nước trở lại con đường mòn cố hữu lạc hậu của lịch sử. Cũng chính vì vậy, cả dân tộc không thoát khỏi mũi súng xâm lược của đế quốc Pháp sau khi ông tạ thế nửa thế kỷ.

— Trần Cao Sơn[9]

Vua Thể tổ là ông vua có tài trí, rất khôn ngoan, trong 25 năm trời, chống nhau với Tây Sơn, trải bao nhiêu lần hoạn nạn, thế mà không bao giờ ngã lòng, cứ một niềm lo sợ khôi phục. Ngài lại có cái đức tính rất tốt của những kẻ lập nghiệp lớn, là cái đức tính biết chọn người mà dùng, khiến cho những kẻ hào kiệt ai cũng nức lòng mà theo giúp. Bởi vậy cho nên không những là ngài khôi phục được nghiệp cũ, mà lại thống nhất được sơn hà, và sửa sang được mọi việc, làm cho nước ta lúc bấy giờ thành một nước cường đại, từ xưa đến nay, chưa bao giờ từng thấy.

Công nghiệp của ngài thì to thật, tài trí của ngài thì cao thật, nhưng chỉ hiềm có một điều là khi công việc xong rồi, ngài không bảo toàn cho những công thần, mà lại lấy những chuyện nhỏ nhặt đem giết hại những người có công với ngài, khiến cho hậu thế ai xem đến những chuyện ấy, cũng nhớ đến vua Hán Cao, và lại thở dài mà thương tiếc cho những người ham mê hai chữ công danh về đời áp chế ngày xưa.

— Trần Trọng Kim[362]
Vấn đề trả thù nhà Tây Sơn

Ngoài ra, sự tàn bạo của ông khi áp dụng các hình phạt thời Trung cổ, trả thù Tây Sơn khiến hậu thế nhiều khi có định kiến nặng nề về ông đến nỗi xóa nhòa hết công lao nhất định của ông đối với thống nhất đất nước. Và đó là điều đáng tiếc đối với vị quân vương quá nặng về khôi phục vương nghiệp, cố đạt được mục đích bằng bất cứ giá nào.

— Đặng Việt Thủy và Đặng Thành Trung[394]

So sánh với đối thủ - vua Quang Trung nhà Tây Sơn

Theo tiến sĩ Trần Cao Sơn, thành viên Viện Xã hội học Việt Nam, Quang Trung Nguyễn Huệ đại diện cho giai cấp cần lao, còn Nguyễn Ánh thuộc dòng dõi quý tộc. Do đó trong khi Nguyễn Huệ dấy binh vì nhân dân thì Nguyễn Ánh lại đấu tranh vì quyền lợi của dòng tộc và cá nhân, lo bảo vệ cho ngôi vị chúa Nguyễn Đàng Trong của mình. Trong khi Nguyễn Huệ coi trọng độc lập dân tộc, 2 lần đánh thắng ngoại xâm thì Nguyễn Ánh chỉ biết lo cho quyền lợi cá nhân, mấy lần cầu viện ngoại quốc (XiêmPháp) đem quân vào nước Việt, khiến người dân trong nước chịu nạn, chủ quyền đất nước bị xâm phạm. Tuy nhiên, ở hai nhân vật này cũng có những điểm tương đồng: hai người đều nuôi chí lớn, quyết thực hiện đến cùng sự nghiệp của mình, không ai có thể lay chuyển và chi phối. Họ đều có những thiên bẩm hơn người, mưu cao kế sâu, đầy thao lược, luôn tạo những bước đi táo bạo, mang tính đột phá.[9]

Người ta còn truyền khẩu câu chuyện đối đáp, khi nữ tướng Bùi Thị Xuân bị bắt, Nguyễn Ánh bèn sai người áp giải bà đến trước mặt rồi hỏi với giọng đắc chí: "Ta và Nguyễn Huệ ai hơn?". Bùi Thị Xuân trả lời:

Chúa công ta [chỉ Nguyễn Huệ], tay kiếm tay cờ mà làm nên sự nghiệp. Trong khi nhà ngươi thì đi cầu viện ngoại bang, hết quân Xiêm đến quân Tàu làm tan nát cả sơn hà, cũng đều bị chúa công ta đánh cho không còn manh giáp. Đem so với chúa công ta, nhà ngươi chẳng qua chỉ là nước vũng so với ao trời. Còn nói về đức độ, thì Tiên đế ta lấy nhân nghĩa mà đối xử với kẻ trung thần thất thế, như đã đối với Nguyễn Huỳnh Đức, bề tôi của nhà ngươi. Còn ngươi lại dùng tâm của kẻ tiểu nhân mà đối với bậc nghĩa liệt, đã hết lòng vì chúa, chẳng nghĩ rằng ai có chúa nấy, ái tích kẻ tôi trung của người cũng là khuyến khích tôi trung của mình. Chỗ hơn kém rõ ràng như ban ngày và đêm tối. Nếu Tiên đế ta đừng thừa long [qua đời] quá sớm, thì dễ gì nhà ngươi trở lại đất nước này.

— Nữ tướng Bùi Thị Xuân[395]

Về tư tưởng kinh tế, Quang Trung cởi mở hơn so với Nguyễn Ánh. Vua Quang Trung khuyến khích nhân dân giao thương buôn bán với nước ngoài, trong khi Nguyễn Ánh lại tìm cách hạn chế và ngăn cấm. Các thương nhân nước ngoài đến buôn bán tại Việt Nam đã có sự so sánh về chính sách thương mại của Quang Trung với Nguyễn Ánh. Đại sứ nước Anh John Crawfurd, người đến Việt Nam năm 1822, dưới triều Minh Mạng, đã dẫn lại lời các Hoa kiều từng sống ở Huế dưới thời Tây Sơn cho rằng: thời Tây Sơn, việc cai trị ôn hòa và công bằng hơn so với Nguyễn Ánh[396]:

Tôi [Crawfurd], thật sự, được chứng thực bởi những thương nhân người Hoa mà tôi trò truyện ở Huế, họ đã sống ở nước này dưới cả 2 triều [Tây Sơn và nhà Nguyễn], rằng vua Tây Sơn quản lý đất nước công bằng và điều độ hơn vị vua hiện tại [Minh Mệnh] hoặc cha ông ta [Gia Long]. Thật vậy, chắc chắn là người dân CoChin China nhận được rất ít lợi lộc khi khôi phục lại một gia tộc [chúa Nguyễn] mà ai cũng biết là đã cai trị tồi để dẫn đến nổi loạn; và họ [nhà Nguyễn] cũng bị xem là người đã khôi phục và duy trì chủ quyền bằng những cách thức xa lạ với các chính quyền thuần Á Đông [cầu viện ngoại bang Pháp, Xiêm,...].[397]

Về tham vọng trong việc trị quốc và ngoại giao với Trung Hoa, Quang Trung tỏ ra vượt xa so với Nguyễn Ánh. Quang Trung từng viết biểu cầu hôn công chúa nhà Thanh và đề nghị nhà Thanh cắt đất Lưỡng Quảng (nay là Quảng Đông, Quảng Tây) cho Đại Việt, ông cũng chuẩn bị sẵn binh lực để đánh lấy Lưỡng Quảng nếu vua nhà Thanh từ chối yêu cầu.[398] Trong khi đó, Nguyễn Ánh (và tất cả những vị vua nhà Nguyễn sau này) chưa từng có ai dám viết biểu cho nhà Thanh đòi hỏi những yêu cầu lớn như vậy.

Vấn đề đối ngoại và cắt đất cho ngoại quốc

Sử gia Nguyễn Văn Kiệm đánh giá mối quan hệ giữa ông và Bá Đa Lộc như sau "Nhiều người, kể cả các sử gia nhấn mạnh quá mức vai trò của Bá Đa Lộc trong việc giúp Nguyễn Ánh... và cho rằng chính nhờ đó mà Nguyễn Ánh đánh bại được quân Tây Sơn. Chúng tôi cho rằng nhận định đó có phần quá đơn giản và quá đề cao Bá Đa Lộc. Đành rằng sự giúp đỡ của Bá Đa Lộc và một số lực lượng lính đánh thuê người Pháp trong thực tế có thể giúp cho lực lượng của Nguyễn Ánh mạnh hơn, song không thể coi đó là một yếu tố quyết định. Phải tìm nguyên nhân thắng lợi của Nguyễn Ánh trong bối cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam lúc ấy như là sự chia rẽ trong nội bộ nhà Tây Sơn, ý chí và năng lực của Nguyễn Ánh, cái chết bất ngờ của vua Quang Trung. Dẫu sao, mối quan hệ giữa ông và Bá Đa Lộc vẫn là một vết đen trong lịch sử xác lập quyền lực của triều Nguyễn và nhân vật Nguyễn Ánh - Gia Long".[104]

Về vấn đề Công giáo đi cùng với mối quan hệ của Gia Long và người Pháp, sử gia Nguyễn Văn Kiệm đánh giá: "Tóm lại, trước và sau khi nắm chính quyền, Nguyễn Ánh tuy vẫn mang ơn Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc), cũng có che chở phần nào các giáo sĩ và giáo dân, song trong thâm tâm và cả trong thực tế không ưa Công giáo bởi vì đạo này quá kiêu hãnh, công kích thẳng vào đạo thờ cúng tổ tiên, một tín ngưỡng truyền thống lâu đời tạo nên một nét đẹp văn hóa và rất hiệu quả trong việc cũng cố trật tự xã hội của chế độ hiện hành. Nguyễn Ánh cũng tỏ ra đủ cảnh giác nhận ra mối quan hệ khăng khít giữa truyền giáo và bành trướng thực dân và đã bước đầu phòng ngừa. Tuy nhiên, Gia Long không bàn hành sắc lệnh cấm đạo nào, và trong gần hai thập kỷ Gia Long ở ngôi, việc truyền bá đạo Công giáo là thuận lợi và tiến triển mạnh. Điều đó càng làm tăng thêm sự nghiêm trọng của những bất lợi do sự xâm nhập của tôn giáo này, khiến người kế vị Gia Long là Minh Mạng phải thi hành những biện pháp chặt chẽ và hệ thống hơn".[399]

Tiến sĩ lịch sử Nguyễn Quang Trung Tiến có ý kiến như sau: "Từ Nguyễn Ánh đến Gia Long - hai tên gọi của một con người - nhãn quan chính trị của ông đối với người Pháp có sự thay đổi rõ rệt. Trong hoàn cảnh mới của lịch sử, ở con người Gia Long chỉ có thái độ hòa dịu với người Pháp do phải biểu hiện sự hàm ơn một cách miễn cưỡng, chứ hoàn toàn không có sự thỏa hiệp và bán rẻ quyền lợi quốc gia cho ngoại bang. Gia Long còn là người hết sức cảnh giác trước mưu đồ thâm nhập Việt Nam của tư bản Pháp và Tây Âu, là người quyết tâm bảo vệ vẹn toàn lợi ích quốc gia - dân tộc trước sức ép của chủ nghĩa tư bản Pháp mà các chính sách của Minh Mạng là bằng chứng biện minh hết sức thuyết phục".[105]

Giáo sư Trần Văn Giàu nhận xét việc Nguyễn Ánh cầu viện Pháp, cho các sỹ quan Pháp làm quan trong triều đình đã để lại tai họa cho đất nước:[400]

...đúng là sĩ quan Pháp đã giúp nhiều cho Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn. Cho nên trong triều đình Huế, đến khi Gia Long lên ngôi, vẫn còn thấy mấy quan đại thần mắt xanh tóc đỏ. Khỏi phải nói trắng ra, các quan đại thần đó như Dayot, Chaigneau, Vannier… đều là tai mắt của Paris. Còn Paris thì các nhà cầm quyền từ Đệ nhất Đế chế đến Đệ tam Cộng hòa đều không lúc nào quên Hiệp ước Versailles 1787. Paris luôn nhắc nhở Huế cái hiệp ước “trời cho” ấy bằng đường ngoại giao và bằng đại bác của chiến hạm bắn lên Đà Nẵng.

Cầu viện Pháp, Hiệp ước Versailles đã tạo thành một “nghiệp chướng” cho triều đình Nguyễn.

Cầu viện là việc khó, nhưng xong lại muốn "mời họ ra khỏi nhà" thì còn khó hơn nhiều. Khó, nhưng vẫn phải làm... đó là vấn đề đậm nét đối với Gia Long từ khi lên ngôi đến khi nhắm mắt... Gia Long cố giữ gìn mối quan hệ êm thấm với người Pháp, vì địa vị và hoàn cảnh thì chưa thể trở mặt ngay được... Gia Long kéo dài tình trạng đó đến khi qua đời và giao lại nhiệm vụ giải quyết vấn đề đó cho kẻ nối ngôi.

— Nguyễn Phan Quang[401]

Khi suy bĩ, Gia Long biết cầu cứu nước Pháp, đã mục kích được dã tâm đế quốc của Liệt cường Tây Phương trước thời của ngài và cả trong thời ngài, vậy mà không tìm nổi một kế sách giữ nước cho khỏi "Bạch họa", chỉ biết "bế quan tỏa cảng", các triều đại kế tiếp cũng chẳng sáng suốt hơn, làm gì mà không mất nước.

— Phạm Văn Sơn[402]

Trong bài “Nên học sử ta”, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc cực lực chỉ trích việc Gia Long ký Hiệp ước Versailles, đồng ý cắt lãnh thổ Việt Nam để đổi lấy sự trợ giúp của quân Pháp. Nguyễn Ái Quốc xem đó là hành vi bán nước:[403]

“Trước khi vua Gia Long bán nước cho Tây, nước ta vẫn là nước độc lập. Vì muốn giành làm vua mà Gia Long đem nước ta bán cho Tây. Thế là giang san gấm vóc tan tác tiêu điều, con Lạc cháu Hồng hóa làm trâu ngựa”.

Sau khi lên ngôi, Gia Long còn đem đất Trấn Ninh cắt cho vương quốc Vạn Tượng, việc này cũng bị chỉ trích. Sau hơn 300 năm thuộc về lãnh thổ Đại Việt dưới thời nhà Hậu Lênhà Tây Sơn, Trấn Ninh đã bị Gia Long cắt cho nước khác. Xét về diện tích, đây là lần bị mất lãnh thổ lớn thứ 2 trong lịch sử Việt Nam, chỉ đứng sau việc Tự Đức cắt Nam Kỳ lục tỉnh cho thực dân Pháp. Xét về nguyên nhân thì lần mất lãnh thổ này là đáng tiếc nhất, vì Gia Long cắt đất Trấn Ninh xem như "quà tặng" chứ không phải vì bị quân đội nước ngoài xâm chiếm.

Vấn đề đối nội

Việc định đô ở Huế

Đặt quốc đô ở Phú Xuân là một mảnh đất gầy, dân thưa, của ít về phương diện quân sự nơi này là một vị trí chiến lược bất lợi cả về thủy lẫn bộ. Trái lại Bắc Hà là cỗi rễ của dân tộc, nói gần là từ hai chục thế kỷ trở về đây ruộng đất phù nhiêu, dân cư đông đảo, anh hùng hào kiệt đời nào cũng sẵn chống xâm lăng nhiều phen như trúc chẻ, ngói tan. Vậy mà vua Gia Long bỏ thật là uổng. Phải chăng Gia Long đã e ngại những uy tín còn sót lại của hai họ Lê Trịnh, nhưng nếu đủ tài thi thố ân uy thì mình là thái dương mà các triều đại đã qua chỉ là những ngọn lửa tàn, đâu đáng sợ! Sau này Bắc Hà ly loạn liên miên, lòng dân khảng tảng vì triều đình ở quá xa rồi 50 năm sau giặc Pháp tiến vào nội địa của ta, hàng vạn quân của Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Tôn Thất Thuyết không chống nổi mấy chiếc tàu, vài trăm lính của Francis Garnier, H. Rivière và De Courcy. Đấy chẳng là sự vụng tính của vua Gia Long vì đã bỏ gốc lấy ngọn đó sao?

— Phạm Văn Sơn[402]

Việc chọn kinh đô ở Huế đã giúp Gia Long tránh được việc phải mất công xây dựng lại một nơi chốn đã bị hoang tàn kiệt quệ vì chiến tranh, vừa phải canh cánh lo lắng giới Nho sĩ cũng như dân chúng phía Bắc cứ mãi hoài vọng Lê triều, đồng thời ở Huế lại có được một địa thế trung tâm đất nước như Thăng Long ngày trước; việc này ắt phải so bằng việc Lý Thái Tổ đã làm khi xưa.

— Mai Thảo[404]

...quyết định [của Gia Long] xây dựng kinh thành mới thay vì quay trở lại trị vì trên kinh đô truyền thống ở Thăng Long có ý nghĩa lớn về mặt chính trị và văn hóa. Thứ nhất, bởi vì Thăng Long (Hà Nội) ở quá xa về phía Bắc; sẽ khiến cho, tân triều khó lòng cai trị được vùng này. Thứ hai, Thăng Long là cơ sở chính trị lâu đời của họ Trịnh; việc này có thể gây bất ổn cho quyền lực của nhà Nguyễn. Thứ ba, dời đô về Huế sẽ dẫn đến việc kết thúc thế độc tôn về văn hóa và giáo dục của Thăng Long; nơi từ lâu là trung tâm học thuật Nho giáo và nơi tụ tập của giới sĩ phu: vào thế kỷ thứ XIX, ở Việt Nam số quan lại và sĩ phu đến từ các vùng miền Trung và miền Nam tăng lên.

— Keat Gin Ooi[405]

Sự tranh cãi về tính đúng đắn và sự tổn thất của việc dời đô [từ Thăng Long vào Phú Xuân] năm 1802 chẳng bao giờ đi đến hồi kết. Vài sử gia người Việt đã nhận định rằng việc dời đô là một thảm họa, vì núi non khu vực miền Trung Việt Nam đã làm tách biệt Huế ra khỏi các vùng còn lại của đất nước [Việt Nam]. Tác động này còn trầm trọng hơn vì Huế thiếu địa thế nằm trong một hệ thống sông ngòi tối quan trọng. Trong lịch sử Việt Nam, khu vực núi non miền Trung đặc biệt thích hợp dung dưỡng thành công các phong trào nổi dậy nhưng các triều đại đóng ở khu vực này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Nhiều sử gia khác nhận định khéo léo hơn rằng việc dời đô đang mang lại lợi ích về mặt văn hóa. Giới sĩ phu người Việt, thay vì chỉ tập trung lại ở một thành phố phía Bắc, sau 1802 đã đến từ mọi miền Việt Nam. Những văn sĩ đến từ miền Trung và miền Bắc như Nguyễn Du (nhà thơ vĩ đại nhất của Việt Nam, tuy nhiên ông đến từ khu vực Bắc Trung Bộ và được vua Minh Mạng xem như một người từ miền Bắc) và Nguyễn Đình Chiểu đã phát triển được một vương triều đóng tại Huế, trong khi những văn sĩ miền Bắc - như là Cao Bá Quát hay Hồ Xuân Hương - đã viết lách trong một sự tự do lớn hơn và chưa từng thấy trước đó. Có thể cả hai luồng ý kiến đều có phần đúng.

— Alexander B. Woodside[406]
Chính sách cai trị

Sử gia Tạ Chí Đại Trường nhận xét những việc làm của Nguyễn Ánh ở miền Nam như sau: "...chính sách đồn điền nhằm vào việc khai phá đất đai làm ruộng bằng cách khiến mọi người không dừng được, phải tham gia với sự đôn đốc, kiểm soát, trợ giúp của chính phủ. Đó là một chính sách nông nghiệp cưỡng ép, có từ xưa nhưng bây giờ lại được áp dụng trên một quy mô rộng lớn, khiến vùng Gia Định trở nên phồn thịnh, sản xuất dồi dào quyến rũ được đám dân nghèo đói Bình Thuận, Phú Yên... bỏ xứ chạy vào làm tăng dân số, uy tín nội bộ cho Nguyễn Ánh, để dư gạo giúp Xiêm đói, giúp Thanh đánh Tây Sơn và cuối cùng để đủ binh lương cho quân lính dùng khi tràn ra phía Bắc đánh đám người kiệt hiệt đã làm ông khốn đốn khi xưa".[137]

Sử gia Trần Trọng Kim có nói "cách Nguyễn Vương khai khẩn đất Gia Định thật là khôn khéo, khiến cho đất Nam Việt trước là một chỗ đất bỏ hoang, không có người ở, mà sau thành ra một nơi rất đông người và rất trù phú trong nước Nam ta. Ấy cũng là một cái công lớn của ông Nguyễn Phúc Ánh vậy".[135]

Nhưng một lần nữa, giữa lý thuyết [rằng hệ tư tưởng Nho giáo sẽ thống nhất được lòng người ở Việt Nam] và thực tế luôn luôn là hai thứ khác biệt. Không phải vì Gia Long chọn Nho giáo là hệ tư tưởng chính thống nên nó sẽ có thể hoạt động hiệu quả ngay. Việc đó đã không xảy ra. Gia Long là một nhà quân sự và ông rất tự hào về việc này. Ông chẳng bao giờ có được thời gian để được học tập về Nho giáo khi còn trẻ và có thể là ông cũng chẳng bao giờ nghĩ nghiêm túc về việc này. Ông đã đạt được sự kính trọng, xây dựng được quân đội và giành được chiến thắng sau cùng cho bản thân vào năm 1802 dựa trên tính thực tế, sự sáng tạo của bản thân, khả năng thỏa hiệp và sự chính trực. Thứ hai, Gia Long hiểu rõ về sự mong manh của nước Việt Nam mới thống nhất sau ba mươi năm nội chiến. Quân đội chúa Trịnh và Tây Sơn có thể đã bị giải tán, nhưng sự trung thành thì vẫn bị chia rẽ sâu sắc. Những vết thương từ cuộc chiến có thể đã lành, nhưng viết sẹo của nó thì vẫn còn. Sự căm tức và lòng thù hận thường hay lẩn khuất dưới cái vẻ ngoài mỏng manh mang tên sự yên bình. Vị hoàng đế thắng trận đã không thực sự cải thiện điều gì khi ông tiến hành săn đuổi và giết chết tất cả những lãnh đạo và hậu nhân của Tây Sơn, những người mà ông quy trách nhiệm cho việc đồ sát và tận diệt dòng tộc của mình. Điều thứ ba, Gia Long hiểu rất rõ quyền lực về chính trị, quân sự cũng như kinh tế của các gia tộc và lãnh chúa ở các địa phương. Gia tộc nhà Nguyễn cũng xuất phát là một gia tộc lớn ở địa phương và bản thân Gia Long đã góp phần phát triển một nhóm mới như vậy tại khu vực cơ sở quyền lực của ông ở miền Nam Việt Nam. Sự thật là, đồng minh lâu năm và bạn thân của Gia Long tại Gia Định là tướng Lê Văn Duyệt trên thực tế đã cai trị miền Nam Việt Nam sau năm 1802. Hoàng đế đã phong thưởng các đồng minh thời chiến của mình bằng các vị trí cao cấp ở khu vực miền Trung và miền Nam. Đó là vì sao mà dù đã đề ra một bộ luật theo tư tưởng Nho giáo, khôi phục lại chế độ thi cử khoa bảng, xây dựng kinh đô mới gồm cả một Tử Cấm Thành của chính mình; Gia Long vẫn duy trì một lực lượng quân sự rất lớn. Ở vùng miền Trung, triều đình cai trị thông qua bốn doanh và bảy trấn quân sự độc lập. Ở khu vực miền Bắc và miền Nam, nhà vua cũng thành lập mỗi vùng năm trấn như vậy. Dưới thời Gia Long, các quan Trấn thủ cũng là một phần của văn hóa chính trị tại Việt Nam có vai trò giống như vị vua theo Nho giáo vậy. Thể chế chính trị song song này đã có ít nhất từ thời trỗi dậy của các họ Mạc, Trịnh và Nguyễn ở thế kỷ XV nếu không là sớm hơn nữa.

— Christopher Goscha[407]

Về luật pháp, Gia Long cho soạn bộ luật mới có tên gọi là Hoàng Việt luật lệ (còn được gọi là "luật Gia Long").[331] Trong 398 điều thì chỉ có 2 điều là rút từ Quốc triều Hình luật thời Hậu Lê, vài chục điều luật khác biệt chút ít về từ ngữ so với luật của nhà Thanh bên Trung Quốc, các điều luật còn lại đều sao chép lại nguyên xi tên gọi lẫn nội dung kể cả các tiểu chú của các điều luật trong “Đại Thanh luật lệ”.[408] Nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần nhận xét bộ luật này về tổng thể là khá khắc nghiệt, không được tiến bộ như bộ luật Hồng Đức của nhà Lê.[7]

Về chính sách thuế khóa và lao dịch, Gia Long áp mức thuế và lao dịch rất nặng lên dân chúng để chi tiêu cho xây dựng và quân đội. Việc xây thành Phú Xuân và đào kênh Vĩnh Tế phải huy động hàng vạn dân phu đi lao dịch. Một người Pháp là Borel viết năm 1818 mô tả việc xây thành Phú Xuân (Huế): “Nhà vua sử dụng tất cả nhân lực vào việc xây tòa thành và các công trình công cộng khác. Khi tôi đến Huế, đã có đến 8 vạn người được điều động từ các nơi trong cả nước đang khẩn trương xây dựng một tòa thành rộng lớn bằng gạch... Riêng việc xây bờ thành đã tốn kém những khoản tiền khổng lồ và làm thiệt hàng ngàn nhân mạng vì phải khổ dịch liên tục... Nhà vua [Gia Long] đã vung ra những món tiền lớn và hy sinh tính mạng của hàng ngàn dân chúng vì họ phải làm việc không nghỉ tay trên các tường lũy của kinh thành”.[4] Một giáo sĩ người Pháp tên Guérard nhận xét rằng:

"Vua Gia Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách, sự bất công và lộng hành làm cho người ta rên xiết hơn cả ở thời Tây Sơn; thuế má và lao dịch thì tăng lên gấp ba".[4]

Vấn đề cầu viện quân đội nước ngoài

  • Hai sử gia Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng cho rằng: Trong những lần thua trận, ông đều cầu xin người ngoài vào giúp sức nhưng cũng là gián tiếp, "rước voi về giày mả tổ", "đưa hổ vào nhà" hay "cõng rắn cắn gà nhà", gây ra hậu quả và tiền lệ xấu cho vận mệnh dân tộc qua việc cầu cứu Xiêm, cầu cứu Pháp.[409][409] Giáo sư Đinh Gia Khánh cho rằng hiệp ước Versailles năm 1787 của Nguyễn Ánh do Bá Đa Lộc thay mặt ký với Pháp là một hiệp ước "bán nước, phản bội dân tộc".[410] Riêng tác giả Lý Khôi Việt của tổ chức Viện Phật học Quốc tế ở Hoa Kỳ còn chỉ trích nặng nề hơn mối quan hệ trên qua việc gọi Nguyễn Ánh là "một tên đại phản quốc, đại Việt gian".[411]
  • Trong tập Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Lịch sử nhân kỷ niệm 200 năm ngày chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút tại Tiền Giang vào tháng 12/1984, bài tham luận của nhà sử học Phan Huy Lê đánh giá, nhận xét như sau:[412]
Triều Mạc thỏa thuận với nhà Minh và cắt đất cho giặc. Chúa Trịnh bất lực để cho nhà Minh rồi nhà Thanh lấn cướp nhiều dải đất biên cương. Nguyễn Ánh cầu cứu vua Xiêm và câu kết với chủ nghĩa tư bản phương Tây. Lê Chiêu Thống rước quân Thanh vào giày xéo đất nước.Đây không còn là hành vi bán nước của từng phần tử phong kiến mà là sự phản bội dân tộc của các thế lực phong kiến nắm quyền thống trị. Giai cấp phong kiến đang trải qua một quá trình phân hóa sâu sắc, trong đó từng bộ phận phong kiến cầm quyền, có tính chất đại diện, đã phản bội lợi ích dân tộc và sẵn sàng câu kết với giặc. Kẻ thù của độc lập dân tộc tìm thấy một chỗ dựa, một lực lượng nội ứng ngay bên trong cơ cấu xã hội
  • Tại hội thảo về Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam tại Thanh Hóa, tháng 10 năm 2008, sử gia Phan Huy Lê phát biểu như sau: "Trước đây có quan điểm cực đoan gọi đây là hành động "cõng rắn cắn gà nhà", là bán nước. Đúng là không thể biện hộ cho hành động "không sáng" này, cũng có thể coi là một tì vết trong sự nghiệp của Nguyễn Ánh, nhưng phải nhìn nhận công bằng. Trong những cuộc đấu tranh bên trong quyết liệt, việc nhờ đến ngoại viện là chuyện thường xảy ra trong lịch sử. Nhưng điều quan trọng nhất là người cầu ngoại viện phải giữ được độc lập chủ quyền của dân tộc, đưa lại lợi ích cho đất nước, còn nếu cầu ngoại viện mà bất lực để mất nước thì có tội lớn... Có thực tế là thế lực Nguyễn Ánh yếu, không kiềm chế nổi quân Xiêm, chính ông đã có lúc than thở: "Ta đưa quân Xiêm vào thế này, giờ nó cướp bóc giết hại nhân dân, nhân dân oán thán như vậy, ta được nước còn có nghĩa gì?" Cũng có thực tế nữa là quân Xiêm đã bị quân Tây Sơn đánh tan trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút. Nhưng người ta có thể suy luận rằng, nếu quân Xiêm không bị Tây Sơn đánh bại, thì chắc gì Nguyễn Ánh đã kiềm chế được quân Xiêm, nhất là đặt trong tham vọng của vương triều Xiêm lúc bấy giờ đang muốn khống chế cả Chân Lạp và Gia Định. Hành động của Nguyễn Ánh cần phân tích và đánh giá một cách công minh".[413] Trong bài viết về Hội thảo khoa học này, ông Phan Huy Lê khẳng định: “Về cá nhân trước đây khi nghiên cứu về phong trào Tây Sơn và kháng chiến chống Xiêm, tôi đã từng lên án hành động này của Nguyễn Ánh và đến nay vẫn không thay đổi (Tôi nhấn mạnh)".[414]

...Hiệp ước Versailles không được thực thi vì sự bùng nổ của cách mạng Pháp năm 1789. Còn viện trợ do Bá Đa Lộc vận động từ các thuộc địa Pháp thì lực lượng tuy không nhiều nhưng cũng có tác dụng giúp Nguyễn Ánh trong việc xây thành lũy, huấn luyện quân sĩ, phát triển thủy quân, mua sắm vũ khí... và hoàn toàn nằm trong sự kiểm soát của Nguyễn Ánh. Khi xem xét ngoại viện, điều quan trọng là cần phân tích và làm sáng rõ hành động cầu ngoại viện có được kiểm soát trên cơ sở giữ được chủ quyền, đưa lại lợi ích cho đất nước hay không, nếu dẫn đến mất chủ quyền, mất độc lập là phạm tội làm mất nước, một tội ác không thể dung thứ. Trên tinh thần đó, tuy còn những khác biệt nhất định nhưng hội thảo đều cho rằng hành động đưa 5 vạn quân Xiêm vào Gia Định là một "điểm mờ", một "tỳ vết" trong cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Ánh.

— Hội thảo Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam[415]

Một vấn đề nổi cộm của vị vua này, thường bị người đời sau lên án là vấn đề ông "cõng rắn cắn gà nhà". Việc làm này của ông không thể biện minh đây là cuộc chiến tranh phong kiến mà do yếu, người ta có thể cầu viện lực lượng bên ngoài như tình thế đã xảy ra trong lịch sử các cuộc chiến tranh phong kiến. Nhà vua phải chịu trách nhiệm về việc cầu viện quân đội nước ngoài dẫn đến những hậu quả tai hại không thể lường trước được. Tuy nhiên cũng phải thấy một điều Gia Long là con người thực dụng, đã biết lợi dụng, khai thác mọi cơ hội để tồn tại song vẫn cố giữ tới mức cao nhất sự độc lập của vương triều ông. Nhà vua không phải không nhận thấy sự tàn bạo của quân Xiêm.
[...]
Phương án cầu viện đối với nhà vua là con dao hai lưỡi, nhục nhã và vinh quang, Gia Long không phải không biết điều này. Nhưng khao khát muốn khôi phục vương nghiệp đã khiến vị vua này có những hành động đi ngược lại quyền lợi Tổ Quốc khi ông cầu viện người Pháp mặc dù trong thâm tâm ông không ưa gì họ. Cố thoát khỏi ảnh hưởng và âm mưu áp chế của họ, ông chỉ còn hy vọng gửi gắm vào Minh Mệnh, người nối ngôi ông giải quyết những mâu thuẫn này. Nhà vua đã có thái độ khéo léo để giữ độc lập nhưng ý muốn của ông đã bị thực tế phũ phàng xóa bỏ. Tất nhiên nhìn rộng ra, lịch sử thế giới thời kỳ này là những cuộc chiến tranh giành thuộc địa của Tư bản. Một điều tất yếu là những nước yếu sẽ bị thôn tính dầu có ai đó "cõng rắn" về hay không. Nhưng lịch sử đã đi theo con đường riêng của nó và dù vị vua khởi đầu triều Nguyễn có những công lao nhất định trong việc thống nhất quốc gia, xây dựng một chính quyền quân chủ hùng mạnh nhưng ông vẫn không thể xóa mờ vết đen trong sự nghiệp khi cầu viện ngoại bang.

— Đặng Việt Thủy và Đặng Thành Trung[394]

Có những ý kiến bào chữa việc Nguyễn Ánh cầu viện quân Xiêm, hứa cắt đất cho Pháp là do quá khao khát báo thù và muốn giành lại ngôi chúa. Đồng thời họ cho rằng dòng họ chúa Nguyễn từng cai quản Đàng Trong suốt 200 năm, thời phong kiến có tư tưởng "Thiên hạ là của vua" nên việc Nguyễn Ánh rước quân Xiêm vào nước mình là không có gì nghiêm trọng. Tuy nhiên nếu xét kỹ thì những ý kiến bào chữa này là không hợp lý:

  • Trong lịch sử Việt Nam đã nhiều lần xảy ra việc mất ngôi, nhưng ngoài Gia Long thì chỉ có Lê Chiêu Thống từng dẫn đường cho ngoại quốc xâm chiếm nước mình. Nhà Đinh, Nhà Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần, nhà Mạc cũng từng bị cướp ngôi nhưng chưa từng có vị vua nào làm chuyện tương tự. Tướng nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn từng dặn vua Mạc Kính Cung như sau: "Nay khí vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Dân ta là người vô tội mà khiến để phải mắc nạn binh đao, ai nỡ lòng nào!... Nếu thấy quân họ đến đây thì chúng ta nên tránh đi, chớ có đánh nhau với họ, cốt phòng thủ cẩn thận là chính; lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng."[416], quả nhiên sau này các vua nhà Mạc dù bị tận diệt cũng không hề cầu viện quân Minh giúp giành lại ngôi. Điều đó cho thấy các vị vua Việt Nam luôn ý thức được về tinh thần dân tộc, rằng việc rước ngoại xâm vào đất nước là một tội rất nặng với dân tộc, ngay cả 1 vị vua mang mối thù bị cướp ngôi cũng không được phép làm.
  • Xét về vai vế thì chúa Nguyễn không phải là vua mà chỉ là quan chức của nhà Hậu Lê, giúp vua Lê cai quản xứ Đàng Trong. Do đó, nếu Nguyễn Ánh muốn rước quân Xiêm vào nước hoặc hứa cắt đất cho Pháp thì phải có chiếu chỉ đồng ý của vua Lê. Thực tế Nguyễn Ánh tự ý mời quân Xiêm, cũng tự ý hứa cắt đất cho Pháp mà không hề có sự đồng ý của vua Lê. Như vậy, kể cả khi xét theo hệ tư tưởng phong kiến đương thời thì việc làm của Nguyễn Ánh cũng không thể bào chữa được, mà còn có thể coi đó là hành vi "tự ý đang lãnh thổ của nhà vua cho giặc", theo luật phong kiến thì sẽ bị khép vào tội Thập Ác bất xá - mục "Mưu loạn (phản nước theo giặc)".

Về phía Pháp, sử gia đương thời Gosselin cho rằng:[417]

Những vị hoàng đế nước Nam, bởi sự bội bạc đối với những người Pháp lẫy lừng đã làm quan cho Gia Long, mà nhờ họ, ông ta [Gia Long] mới có được ngai vàng; bởi sự tàn ác đối với những giáo sĩ đồng bào của chúng ta; bởi sự cứng đầu điên dại bế quan tỏa cảng; bởi sự khinh bỉ nền văn minh phương Tây, vì kiêu căng ngu muội, họ cho là man rợ; bởi sự kiên trì từ chối tiếp xúc với nước ngoài, trừ nước Tầu; những hoàng đế này, tôi nói rằng, phải chịu trách nhiệm sự suy đồi và sụp đổ của nước họ, phải gánh vác một mình, sự nhục nhã trước lịch sử.

Trong bài thơ Lịch sử nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán hành động cầu viện quân đội ngoại quốc của Nguyễn Ánh:

Gia Long lại dấy can qua
Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.
Tự mình đã chẳng có tài,
Nhờ Tây qua cứu tính bài giải vây.
Nay ta mất nước thế này,
Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà,
Khác gì cõng rắn cắn gà,
Rước voi dẫy mả, thiệt là ngu si.

— Hồ Chí Minh[418]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Gia_Long http://www.britannica.com/EBchecked/topic/232868 http://books.google.com/books?id=0LgSI9UQNpwC http://books.google.com/books?id=0LgSI9UQNpwC&pg=P... http://books.google.com/books?id=0Rh2BgAAQBAJ&pg=P... http://books.google.com/books?id=3Z3a0NU4RHMC&pg=P... http://books.google.com/books?id=6VROpoZsMzYC&pg=P... http://books.google.com/books?id=9GRD_GV0kuMC http://books.google.com/books?id=EYInAAAAQBAJ&pg=P... http://books.google.com/books?id=EvqKqpSCpaEC&pg=P... http://books.google.com/books?id=IrNuAAAAMAAJ